Close
Free HTML5 Bootstrap Template

About Me

Francisco Assisi. Maria
Nguyễn Yên CRM

TRUYỆN KỂ VỀ MẸ - TẬP 1                       (Trang 19)

120. Mẹ Bảy Sự

Trong mạc khải của thánh nữ Brigitta (L. VII, CHAP. XCVII) có kể một truyện: Một Đức ông nọ, vừa tồi tàn, vừa khả ố vì phóng đãng, vừa đặc biệt vì dòng dõi quí tộc. Ông đã thực sự ký giấy bán cả linh hồn lẫn xác cho ma quỉ, làm tôi nó như một tên nô lệ trong suốt sáu mươi năm, kéo lê một đời đầy tội lỗi và tệ hại quá sức tưởng tượng, không biết đến tôn giáo là gì.

Ông ngã bệnh trầm trọng. Chúa Giêsu muốn dủ tình thương, ban lệnh cho thánh nữ Brigitta báo cho cha giải tội của bà phải đến giúp kẻ liệt ấy và khuyên ông xưng tội. Thầy cả đến, nhưng tội nhân cứ quyết rằng đã xưng tội nhiều lần rồi, không cần phải xưng lại nữa. Lần thứ hai, linh mục lại đến, kẻ nô lệ hoả ngục lại càng không thèm nghe nói đến xưng tội hơn. Chúa Giêsu lại hiện ra lần nữa, phán bảo bà thánh cứ phải xin thầy cả đến giúp ông. Lần thứ ba này, linh mục đến kể rõ cho ông biết những lần Chúa hiện ra với thánh nữ và lý do tại sao ngài đến để thi hành lệnh Chúa, muốn thương cứu vớt ông. Những lời nói đó cảm kích bệnh nhân rất nhiều. Ông bắt đầu khóc lóc và kêu lên:

- Nhưng lẽ nào con còn được hy vọng tha thứ nữa! Con đã tự tình làm nô lệ quỉ dữ, làm tôi nó suốt sáu mươi năm trời nay và phạm không biết bao nhiêu là tội lỗi?

Linh mục trả lời:

- Không hệ gì. Ông cứ an tâm can đảm và bình tĩnh, nếu ông hối hận, tôi hứa với ông rằng Chúa sẽ tha thứ cho ông.

Người liệt đem lòng cậy trông thưa:

- Thưa cha, tôi tưởng đã bị luận phạt, đã thất vọng về phần rỗi của tôi. Nhưng giờ đây, tôi đau đớn vì tội lỗi, chính sự đau đớn này làm tôi thêm lòng trông cậy, Chúa đã không bỏ tôi, thì đây tôi xin sẵn sàng xưng tội.

Hôm sau, ông rước lễ và sáu ngày sau, ông đã từ trần trong bầu không khí đầy nhẫn nhục và yên hàn. Ít lâu sau, Chúa lại hiện ra với thánh nữ Brigitta cho biết là người tội lỗi đó đã không hư mất, nhưng còn đang ở luyện tội. Được thế là nhờ Đức Mẹ Maria bầu cử, vì người đó, trong suốt quãng đời trụy lạc vong mạng, vốn giữ lòng tôn sùng những đau đớn của Đức Mẹ, bao giờ nhắc tới cũng tỏ lòng cảm thương.

 

121. Thoát Chết

Cha Razzi Camaldule thuật truyện một thanh niên mồ côi cha rất sớm, mẹ chàng gửi chàng vào hầu cận một vị hoàng tử. Bà mẹ vốn có lòng yêu mến Đức Mẹ, nên lúc từ giã con, bà đã cẩn thận dặn dò con và bắt hứa với bà hằng ngày phải đọc một kinh Kính Mừng và thêm câu: “Lạy Đức Nữ Trinh đầy ơn phúc, xin cứu giúp con trong giờ lâm tử.”

Rồi chàng vào đền ông hoàng. Chàng hoang phí đài các đến nỗi ông phải bó buộc thải chàng ra. Thất vọng vì thấy không còn phương sách cứu chữa, chàng nhập bọn du thủ du thực, ăn cướp giết người nhưng vẫn trung thành với điều đã hứa với mẹ. Ít lâu sau chàng sa lưới luật pháp. Toà lên án tử hình. Đêm trước ngày bị hành quyết, chàng thẫn thượt bó gối trong tù ôn lại dĩ vãng. Chàng than trách thân phận vì bị ô danh, vì làm ưu phiền cho mẹ, và vì cái chết đang chờ. Bỗng chàng ngước mắt lên thấy một thanh niên công tử niềm nở hỏi chàng. Thanh niên này nói mình đến cốt để cứu chàng thoát tù tội và thoát cái chết nữa. Chàng vui mừng. Người thanh nhiên ra cho chàng những điều kiện phải giữ. Chàng ưng thuận. Thanh niên bèn xưng mình là quỉ và bảo chàng nếu muốn thoát chết thì phải chối Chúa Giêsu và các phép bí tích. Chàng cũng ưng thuận. Quỉ lại bắt chàng  chối cả Đức Mẹ và không được xin Người phù hộ nữa. Chàng kêu lên:

- Thế thì chả chơi, không bao giờ tôi chịu làm thế.

Rồi ngước mắt lên nhìn Đức Mẹ, chàng đọc lại lời kinh vắn tắt mẹ chàng đã dặn: Lạy Đức Nữ Trinh đầy ơn phúc, xin giúp con trong giờ lâm tử.

Vừa nghe lời đó, quỉ biến hút, để mặc chàng chìm ngập vào nỗi phiền sầu cay cực vì đã chối Chúa. Nhưng chàng lại chạy đến Đức Mẹ. Đức Mẹ đã thương cho chàng được thống hối mọi tội lỗi. Rồi dầm dìa nước mắt mà xưng tội với một lòng ăn năn tuyệt hảo.

Lúc điệu chàng từ ngục thất ra xử án ở giảo hình đài, trên lối đi, chàng gặp một tượng Đức Mẹ, chàng cúi đầu chào và đọc lại lời kinh quen đọc: Lạy Đức Nữ Trinh đầy ơn phúc, xin giúp con trong giờ lâm tử.

Đột nhiên, dân chúng kêu lên vang ầm. Họ vừa chứng kiến một sự kiện lạ: Tượng Mẹ cũng cúi đầu ưng thuận, rất mực xúc cảm, chàng xin cho phép đến hôn chân Đức Mẹ. Lính áp giải chối từ, nhưng vì dân chúng cũng rất mực cảm thương xin cho, họ mới bằng lòng.  Lúc thanh niên ấy cúi xuống hôn, tượng Mẹ liền giơ hai tay ôm lấy chàng, chặt đến nỗi không thể gỡ nổi. Dân chúng chứng kiến sự lạ kêu lên:

- Xin được ân xá! Xin cho hắn được ân xá!

Và chàng được ân xá. Trở về quê hương, chàng thanh niên ấy sống một đời sống gương mẫu, trung thành phục sự Đức Mẹ, Đấng đã cứu chàng thoát chết cả hai phần hồn và xác.

122. Ba Chàng Tiến Sĩ

Có ba nhà tiến sĩ vừa lĩnh bằng ở viện đại học Balê lên đường đi núi Mont-Cenis, giữa đường gặp cơn giông tố dữ dội. Sợ tai hoạ, ba ông cùng gò cương cho ngựa phi nước đại, cốt tìm một chỗ trú để đỡ nguy hiểm. Nhưng giữa những luồng chớp xé mây, những tiếng sét tung trời, họ đều nghe thấy một tiếng thất thanh ghê gớm:

- Đánh xuống, đánh xuống giết nó.

Đồng thời một tầm sét vung ra kinh hãi đánh ngã một người ở trong bọn họ ngã xuống và xác tan thành tro bụi. Hai ông bạn kia hoảng hồn mất vía, ra sức cho ngựa phi kịp với tốc lực sấm sét. Nhưng chớp vẫn loang loáng rách trời, sét vẫn ầm ầm gieo kinh khủng. Lại một tiếng nữa xé mây:

- Đánh xuống, đánh xuống giết nó đi.

Ghê gớm chưa,  viết dòng này tay tôi run rẩy, tim tôi ngưng đập. Theo sau tiếng đó là một đòn sét giáng ngay thẳng tại chỗ. Ông thứ ba tên là Augustinô chết khiếp ngoi ngóp, còn ông thứ hai thì chết cứng ngay tại chỗ, hồi tâm lại, nhớ đến một kinh ông vốn quen đọc để kính Đức Mẹ. Hữu sự thì bái tứ phương, ông bèn sướt mướt khóc ròng, tâm hồn hối hận, ông cầm trí sốt sắng lạ thường kêu lên:

- Chúng tôi trông cậy rất Thánh Đức Mẹ Chúa Trời.

Ông vừa đọc, vừa phóng ngựa rất mau, mặc dầu đứt cả cương và tuột cả khuyết đạp. Nhưng mới ghê làm sao! Tia hy vọng đó cũng không hòng gì nữa, mây vẫn ào ạt xô nhau tới với những tiếng ồn ồn kinh sợ, chớp tai ác vẫn dồn dập che trời, sét vẫn rầm rầm thét, thế là hết, còn hy vọng gì nữa! Khổ hơn cả là tiếng thù oán đó lại nổ một lần nữa:

-Đánh xuống! Đánh xuống!

Trời! Augustinô đáng thương chừng nào, khiếp đảm chừng nào, số phận ông sẽ ra sao? Ông lại sốt sắng hơn đọc lại lời kinh:

- Chúng tôi trông cậy rất Thánh Đức Mẹ Chúa Trời...

Rồi ông phó mình cho Chúa, vì ông chắc mình không thoát chết. Nhưng rồi sấm chớp khuất sau mây, im lặng, thứ tiếng tai quái lại rùng rợn thét lên, ai oán, đe doạ:

-Đánh xuống,  đánh xuống giết nó đi.

Có tiếng khác đáp lại:

- Không đánh được, hắn đọc kinh Sub tuum Praesidium Confugimus (chúng tôi trông cậy rất Thánh Đức Mẹ) và Đức Nữ hắn cầu xin đó đã trói chúng ta, lại còn phá tan cả sấm sét nữa.

Thử tưởng tượng người hành khách đáng thương đó đã chết dở, xúc động chừng nào. Nghe câu đối thoại đó, ông cầm trí đọc kinh Sub Tuum: Chúng tôi trông cậy. Ông hết sức thành tâm cầu khẩn, thế là một phép lạ quá sự trông mong đã xảy ra: giông tố im lặng; trời lại hiện ra thanh quang. Ông tiến sĩ trẻ tuổi đã đi tới chân núi.

Truyện này do cha Binet dòng Tên kể lại trong tác phẩm về những trọn lành siêu việt của Thánh Nữ Đồng Trinh (Les Souveraines perfections de la Sainte Vierge) phần III, chương XV, trang 406. Cuối đoạn cha viết: “Điều tôi biết chắc chắn là ông tiến sĩ trẻ đó, sau vào tu dòng thánh Phanxicô, đã không bỏ qua ngày nào mà không đọc sốt sắng kinh “Chúng tôi trông cậy...” Vì chính nhờ kinh ấy mà ông đã thoát nạn.

123. Một Thiếu Nữ Nghèo

Có một thiếu nữ chăn chiên nghèo khó, có lòng yêu mến Đức Mẹ tha thiết. Hạnh phúc nhất đời cô là đến một nhà nguyện nhỏ ẩn trong bóng núi, thăm viếng tượng Đức Mẹ và cùng với Mẹ giải tỏ nỗi lòng, yêu mến tôn kính Mẹ, trong lúc đàn vật của cô nhởn nhơ gặp cỏ chung quanh.

Tượng Đức Mẹ ở nhà nguyện đó là một tượng thô sơ, không có gì để trang sức, thấy thế, cô bé tận lực làm việc may cho tượng một áo choàng đơn sơ. Một hôm cô đi hái những bông hoa dại ngoài đồng, kết thành một triều thiên rồi leo lên bàn thờ, đặt trên đầu tượng Mẹ và nói:

- Lạy Mẹ, con muốn đội trên đầu Mẹ một triều thiên vàng rực rỡ, đầy những đá ngọc kia. Nhưng con nghèo quá. Vậy Mẹ hãy nhận lấy triều thiên hoa nghèo nàn này nhé, và coi đây là biểu hiệu lòng con yêu mến Mẹ.

Lòng sùng kính phụng sự Mẹ Maria của cô bé mục đồng đạo hạnh ấy chỉ có những sắc thái tương tự như vậy, không có gì hơn. Nhưng rồi ta sẽ thấy Đức Mẹ đã đáp lại lòng yêu mến và đức ân của cô như thế nào. Cô lâm bệnh nặng đến hòng chết. Lúc ấy có hai cha dòng đi qua vùng ấy, ngồi nghỉ mệt dưới một gốc cây. Một cha ngủ thiếp đi, còn cha kia vẫn thức. Nhưng cả hai cùng được thấy một hiện tượng lạ. Một đoàn thiếu nữ thanh xuân từ xa đi tới, trong đó có một thiếu nữ đoan trang diễm lệ tuyệt vời. Một cha bèn hỏi xem thiếu nữ này là ai và đi qua đây để làm gì, thiếu nữ trả lời:

- Ta là Mẹ Thiên Chúa. Ta và các trinh nữ đi sang làng bên để thăm một trẻ nữ mục đồng sắp chết. Trước đây em đó từng đến thăm Ta luôn.

Nói xong, hiện tượng biến mất. Hai cha dòng nói với nhau:

- Ta cũng phải đi thăm em bé đó xem sao.

Rồi cả hai cùng vào làng và tìm được nơi cô bé ở, các cha liền vào thăm. Nhà cô là một lều nhỏ, cô nằm hấp hối trên một đống rơm. Hai cha lên tiếng chào cô, cô liền nói:

- Các cha hãy cầu xin Chúa cho xem chung quanh con đây bây giờ.

Hai cha quì xuống và được thấy Mẹ Maria như lúc nãy, một tay cầm triều thiên, đứng bên cô bé mà an ủi, bỗng dưng các trinh nữ kia liền cất tiếng hát và nương theo tiếng ca dịu dàng hoà vang, linh hồn cô bé thoát xác phàm. Mẹ Maria đặt triều thiên lên đầu cô, đón nhận linh hồn cô vào thiên đàng.

 

124. Nhận Mẹ Thay Mẹ

Trong lịch sử thiết lập nhà dòng Chúa Giêsu ở Neapoli có kể một truyện như sau: Nhà quí phái trẻ tuổi người Tô-cách-lan, tên là Guilemo Elphinstone, hoàng thân của hoàng đế Giacôbê.

Sinh trưởng trong bè rối, ông đã nhiễm lây tất cả học thuyết lạc giáo. Nhưng ánh sáng trên trời đã cho ông dần dần khám phá ra cái giả dối của đạo ông theo. Ông sang Pháp. Ở đây ông nhờ một linh mục dòng Tên đồng hương giúp đỡ, và nhất là nhờ sự can thiệp của Đức Mẹ, nhận ra chân lý, ông đã từ bỏ lạc giáo và trở lại Công Giáo. Sau đó ông sang Roma.

Một hôm có người bạn thấy ông âu sầu thảm não, bèn hỏi duyên cớ thì Elphinstone trả lời: Đêm trước thân mẫu ông hiện đến bảo ông:

- Con ơi, con có phúc lắm vì đã  gia nhập Giáo Hội chân thật!  Phần mẹ, mẹ đã chết trong lạc giáo nên mẹ phải trầm luân đời đời...

Từ ngày đó, hơn bao giờ hết, ông gia tăng lòng sùng kính Đức Mẹ mà ông đã nhận làm mẹ thay mẹ trần gian. Mẹ Maria soi sáng cho ông vào dòng, ông hứa sẽ thực hiện ý định. Nhưng rồi ông lâm bệnh, buộc lòng phải đổi khí để tìm sức khoẻ. Ông đến Neapoli, đó là nơi Chúa định cho ông từ trần mà từ trần đang lúc là một tu sĩ. Vừa tới nơi, bệnh ông nặng thêm, nguy đến tính mạng. Ông thiết tha nài xin các bề trên nhận ông vào dòng. Trước Thánh Thể, lúc chịu của ăn đàng, ông tuyên khấn theo hiến pháp dòng Chúa Giêsu. Từ đó ông đem hết tâm lực để cảm tạ Mẹ Maria đã cứu ông khỏi bè rối, dẫn ông vào Giáo Hội Công Giáo, lại đưa vào nhà Chúa để ông được chết giữa các tu sĩ thân yêu. Trước cảnh hấp hối sốt sắng của người con yêu Đức Mẹ ấy, những anh em tu sĩ chứng kiến đều cảm động. Ông kêu lên:

- Ôi xinh đẹp biết bao được chết giữa các thiên thần này.

Người ta bảo ông nghỉ một chút, ông trả lời:

- A, đây chưa phải là lúc nghỉ, tôi sắp bước bước cuối cùng đời tôi. Khi sắp trút hơi ông nói với các tu sĩ vây chung quanh:

- Anh em ơi, anh em có trông thấy các thiên thần từ trời xuống để giúp tôi không? Một tu sĩ thấy ông lẩm nhẩm mấy lời nhỏ nhẹ hỏi, thì ông trả lời:

- Thiên thần bản mệnh vừa cho tôi biết: tôi sẽ chỉ qua luyện tội ít thôi, rồi sẽ được lên thiên đàng.

Sau đó, ông thỏ thẻ cùng Đức Mẹ và nhắc đi nhắc lại: “Mẹ ơi, Mẹ ơi” với thái độ ngây thơ như trẻ nhỏ sa vào lòng mẹ âu yếm mà ngủ, ông tắt hơi an bình.

Ít lâu sau, một thầy dòng thánh thiện được thị kiến thấy thầy Elphinstone đã lên thiên đàng.

 

125. Mẹ Giữ Dây Thắt Cổ

Theo cha Carlo Bovio dòng Tên thuật lại, hồi đầu thế kỷ XV trong một tỉnh nước Pháp hồi đó phục quyền Anh Quốc, có chàng thanh niên quí phái tên là Ernest. Chàng đem cả gia tài phân phát cho người nghèo khó, rồi vào tu trong một đan viện. Ở đây chàng sống một cuộc đời hết sức trọn lành đến nỗi các bề trên quí mến chàng đặc biệt; nhất là vì chàng có lòng sùng kính Đức Mẹ cách riêng. Hồi đó, một cơn dịch khởi phát hoành hành ở phố, người ta vào đan viện xin các thầy cầu nguyện. Đức Đan Viện Phụ truyền cho thầy Ernest phải đến trước bàn thờ Đức Mẹ cầu xin cho thành và không được trở ra trước khi Đức Mẹ đáp.

Thầy đan sĩ trẻ tuổi vâng lời cầu nguyện và đợi cho suốt ba ngày mới nhận được hồi âm của Mẹ Maria. Đức Mẹ chỉ định phải đọc ít lời nguyện. Và tai nạn đã qua khỏi khi người ta đã thi hành lời Mẹ dặn.

Nhưng thương hỡi! Ít lâu sau, thầy Ernest lạnh nhạt lòng sùng kính Đức Mẹ. Ma quỉ bủa vây thầy bằng trăm nghìn chước cám dỗ, nhất là về đức thanh tịnh và ơn gọi tu trì. Vì không đến nương cậy nhờ xin Mẹ, thầy đã bất hạnh đến quyết định trèo tường đan viện mà đi. Lúc  trốn đi, thầy đi ngang qua một tượng Đức Mẹ ở hành lang đan viện, thầy nghe tiếng tượng đó gọi bảo:

- Con ơi! Sao con lại bỏ Mẹ?

Kinh ngạc và cảm xúc hối hận,  thầy quì gối dưới chân tượng và kêu lên:

- Lạy Mẹ! Mẹ không thấy con không thể ở lại được nữa hay sao? Sao Mẹ không phù giúp con? Đức Mẹ trả lời:

- Thì con, sao con lại không đến cầu xin với Mẹ? Nếu con đến cầu xin Mẹ, đâu đến nỗi này! Từ nay, cứ đến cầu xin với Mẹ con đừng sợ gì cả.

Thầy Ernest trở về đan phòng. Nhưng những chước cám dỗ lại chạy xô đến. Không chịu trung thành đến cầu xin Mẹ, thầy lại quyết định một lần nữa trốn khỏi nhà dòng. Từ đó thầy sống một cuộc đời sa đoạ hết hư hỏng này đến hư hỏng khác. Sau cùng thầy thuê một quán trọ để làm nghề sát nhân đoạt của.

Nhiều hành khách ngủ trọ đêm tại quán thầy đã bị chết oan và mất hết tài sản dưới bàn tay ác nghiệt của thầy. Cứ thế thầy đã giết mất cả người bà con với quan đầu hạt. Dựa theo những bằng chứng chắc chắn, ông quan này đã quyết định truy nã và xin luật pháp xử tử thầy. Trong khoảng thời gian đó, ông chủ quán ác đức kia lại vẫn khôn khéo trốn tránh và sống tự do ngoài vòng pháp luật. Một hôm, có một hiệp sĩ trẻ tuổi vào ngủ tại quán thầy. Manh tâm nổi dậy, Ernest quyết định vào phòng ngủ giết chết hiệp sĩ đó để đoạt của. Nhưng thầy đã thấy gì? Trên giường thay vào chỗ hiệp sĩ nằm, một tượng chịu nạn đầy thương tích ngước mắt nhân từ nhìn thầy và âu yếm nói:

- Sao con bạc thế? Cha đã chết một lần để cứu con mà con cảm thấy chưa đủ sao? Con muốn giết Cha một lần nữa ư? Nào cứ giết đi...

Lòng tràn đầy hổ thẹn, thầy Ernest nức nở khóc nghẹn ngào và thưa:

- Lạy Chúa, con đây: Chúa xử nhân từ với con là chừng nào. Con quyết trở về cùng Chúa.

Ngay đêm đó, thầy  bỏ quán trọ trở về, thầy gặp đội tuần cảnh và bị bắt điệu đến trước toà công lý. Ở đây thầy thú nhận hết tội lỗi. Sau đó thầy lập tức bị treo lên giảo đài, không để cho thầy có giờ xưng tội. Thầy liền phó mình mặc Đức Mẹ, lúc người ta buộc dây vào cổ thầy thì chính Đức Mẹ thân đến để giữ cho thầy khỏi chết. Khi mọi người trở về, Đức Mẹ mới cởi dây cho thầy và bảo:

- Con hãy trở về đan viện mà đền tội. Khi nào Mẹ mang bản xá tội đến, con hãy dọn mình chết.

Sau khi trở về đan viện kể lại mọi sự cho Đức Đan Viện Phụ, thầy sống cuộc đời đền tội hết sức khắc khổ. Qua thời hạn nhiều năm thầy thấy Đức Mẹ hiện đến đưa bản xá tội, thầy liền dọn mình chết tốt lành thánh thiện.

 

126. Sống lại nhờ Mẹ

Trong cuốn Mare magnum exemplorem SS Rosarii của cha Dominique Riera, một cuốn tổng hợp nhiều sách của nhiều tác giả thuật lại các ơn lạ về kinh Mân Côi có truyện ly kỳ sau đây:

Một nhà quí phái kia rất sùng kính Đức Mẹ, đã thiết lập trong biệt trang của ông một ngôi nhà nguyện nhỏ, đặt một ảnh Đức Mẹ thật đẹp. Ông hay đến đó cầu nguyện, cả ban đêm ông cũng đến cầu nguyện mặc dù phải cắt ngang giấc ngủ, đến đó dâng Mẹ niềm tôn kính chân thành. Bạn ông là người nhân đức. Nhưng đêm nào cũng thấy chồng của mình vào lúc bốn bề im lặng mới ra đi và chỉ trở về sau một quãng giờ lâu dài,  bà đem lòng ghen tương ngờ vực. Mối ngờ vực càng ngày càng nặng nề sâu xa! Một hôm để nhổ cái gai từng đâm nát lòng bà, bà đánh bạo hỏi chồng xem ông có yêu ai khác nữa không. Nhà quí phái mỉm cười trả lời:

- Có, tôi có yêu một nữ nhân đáng yêu tuyệt thế. Tôi đã trao tặng bà cả tấm lòng của tôi, và nếu không yêu mến bà nữa, thì tôi chỉ còn có chết... Ông muốn nói về Đức Nữ Đồng Trinh, nhưng từ lâu vẫn ngờ vực, muốn biết rõ chân tóc kẽ tơ, bà liền hỏi:

- Thế có phải đêm đêm ông đến với người đó phải không?

Ông trả lời quyết đáp, vì có ngờ đâu những lời ấy lại gây ra một hậu quả khốc liệt: người đàn bà đa nghi đã quyết định một việc táo bạo! Đêm sau, ông lại theo thường lệ bỏ phòng ra đi. Bà bèn lấy dao cắt đứt họng tự tử. Sau khi làm xong công việc sùng kính đã quen, nhà quí phái trở về phòng. Lên giường nằm ông thấy giường ướt đẫm. Gọi vợ thì thấy không trả lời. Ông lay bà cũng chẳng động. Thắp đèn lên ông thấy giường đầy máu và vợ ông đã siết họng chết sõng sượt. Định tâm lại, ông hiểu ra nguyên cớ. Biết làm sao đây? Ông bèn trở ra, khóa chặt cửa phòng, đến nhà nguyện sấp mình xuống dưới chân ảnh Mẹ, khóc lóc kêu van:

- Lạy Mẹ, Mẹ đã thấy nỗi khổ của con chưa? Mẹ không an ủi con, con biết kêu cứu vào ai bây giờ? Giá con không đến đây tôn kính Mẹ, bạn con đâu có chết mất linh hồn? Lạy Mẹ chỉ có Mẹ mới chữa được tai biến ghê gớm này, xin Mẹ chữa con đi!

Lời cầu xin đầy tin tưởng bao giờ cũng được Mẹ Tình Thương đến cứu giúp. Nhà quí phái vừa cầu nguyện xong, một  đầy tớ đến mời ông về vì bạn ông đang  gọi, chưa tin hẳn mình được hạnh phúc Mẹ nghe lời, ông bảo đầy tớ:

- Cứ trở về, xem kỹ có phải đúng bà gọi ta không?

Người đầy tớ trở về sau một lát lại đến:

- Mời ông về mau bà đang gọi ông và đợi ông.

Ông trở về mở cửa và thấy bạn ông đã sống lại đến quì dưới chân ông khóc lóc xin tha thứ, bà kêu lên:

- Ông ơi! Đức Mẹ đã cứu tôi thoát khỏi hoả ngục.

Cả hai ông bà vui mừng đến chảy nước mắt, ,dắt nhau ra nhà nguyện nhỏ tạ ơn Đức Mẹ. Và hôm sau, ông thiết tiệc mời bà con đến chung vui,  bạn ông kể lại phép lạ và cho mọi người xem vết thẹo ở cổ.

 

127. Làm Mẹ phải khổ

Cha đáng kính Jean Herolt, dòng Đaminh đã thuật câu truyện sau đây trong tập Semones discipuli: Có thuật một người đàn ông đã kết bạn mà vẫn sống bê tha tội lỗi...

Bạn ông, một giáo hữu nhiệt thành, không biết làm cách nào để chồng dứt bỏ cuộc đời tội lỗi; bà nài nẵng mãi, ông chồng mới ưng chịu làm một việc đơn sơ để sùng kính Đức Mẹ Đồng Trinh trong nếp trụy lạc của ông: bà xin ông đọc một kinh Kính Mừng mỗi khi đi qua một ảnh hay tượng Đức Mẹ. Ai ngờ chỉ có thế mà bà đã được như sở nguyện.

Một đêm kia, lúc trắng trợn đi lăn mình vào dịp tội, con người xấu thói đó nhìn thấy xa xa một ánh sáng lập loè. Ông lại gần và nhận ra đó là ngọn đèn dầu thắp trước tượng Đức Mẹ ẵm Chúa Hài Nhi. Theo lời hứa với vợ, ông đọc một kinh Kính Mừng. Tức thì ông thấy Chúa Hài Đồng mình đầy vết thương đang vấy máu! Hoảng hốt và cảm động vì nghĩ bởi tội mình mà Chúa Cứu Chuộc phải chịu những vết thương đau đớn ấy, ông nức nở ôm mặt khóc. Nhưng Chúa Hài Đồng trở mặt đi không thèm nhìn đến ông. Bẽ bàng quá, ông liền than thở với Đức Mẹ:

- Lạy Mẹ Tình Thương, Con Mẹ đã bỏ con rồi, con xin cậy nhờ Mẹ là Mẹ Chúa cũng là trạng sư rất quyền thế, rất xót thương. Lạy Nữ Vương, xin giúp đỡ con, xin can thiệp giúp đỡ con.

Tức thì Đức Mẹ trả lời:

- Bọn tội lỗi các con gọi Ta là Mẹ Tình Thương, nhưng các con có thôi làm cho Ta trở thành người Mẹ Đau Khổ đâu! Các con cứ đi bắt bớ hành hạ Con Ta mãi, và làm cho Ta khổ sở nhất đời.

Nhưng rồi Mẹ cũng mủi lòng và an ủi người tội lỗi, đã đến quì dưới chân Mẹ đó: Mẹ quay về Chúa Giêsu xin tha thứ cho ông ta. Và dường như Chúa Giêsu cứ nhất định không tha thứ, nên Đức Mẹ đặt Chúa lên ghế, quì xuống mà thân thưa rằng:

- Con Mẹ, Mẹ không đứng dậy nữa, nếu con không muốn tha thứ cho người tội lỗi này.

Chúa Giêsu bèn trả lời:

- Ôi Mẹ, Con không thể chối Mẹ được nữa. Mẹ muốn con tha cho nó phải không? Vâng, vì yêu Mẹ, Con tha rồi đó. Mẹ bảo nó đến hôn thương tích của con đi.

Ông ta bèn khóc lóc bước lên ghé môi hôn những vết thương nơi mình Chúa, hôn đến đâu, vết thương biến đi đến đó. Sau cùng Chúa Giêsu cũng ôm hôn ông ta, tỏ ra đã tha thứ hết cho ông ta rồi.

Ông hoàn toàn cải quá, sống một cuộc đời mới rất lành thánh. Ông cũng không quên đem hết tâm hồn yêu mến Mẹ Maria, Người đã xin cho ông được ơn trọng đại ấy.

 

128. Vâng, con có tội đó

Trong thành phố Reichersperg xứ Bavière, có một vị kinh sĩ tên là Arnould, rất tận tụy sùng kính Đức Mẹ. Thấy mình đã đến giờ lâm chung, ngài xin chịu các phép bí tích sau hết, và mời các anh em ở cùng dòng đến, xin họ đừng bỏ mình trong giờ phút cuối đời ấy. Bỗng dưng, ngay trước mắt anh em, thân ngài bắt đầu run rẩy, đôi mắt nhớn nhác sửng sốt, mồ hôi lạnh toát chảy khắp mình, ngài kêu lên:

- Anh em không thấy những tên quỉ đang muốn kéo tôi xuống hỏa ngục kia ư? Xin anh em cầu nguyện cùng Mẹ Maria để cứu tôi với. Tôi tin thật Mẹ sẽ cho tôi thắng chúng nó.

Anh em chứng kiến liền nghe theo lời ngài cầu xin, đọc kinh để cầu Đức Mẹ; khi họ đọc đến câu: Rất Thánh Đức Bà Maria, cầu cho chúng tôi, thì vị kinh sĩ nói:

- Xin đọc lại tên Đức Mẹ, vì tôi đang ở trước toà phán xét. Im lặng một lát ngài nói tiếp:

- Vâng, con có phạm tội đó, nhưng con đã hối hận rồi. Quay về phía  Mẹ Maria ngài tiếp:

- Lạy Mẹ, nếu Mẹ đến cứu con, thì con sẽ được rỗi.

Quỉ lại tấn công ngài một lần nữa. Ngài làm dấu thánh giá và kêu tên Mẹ Maria mà chống cự. Cứ thế qua suốt một đêm.

Ngày vừa rạng, vị kinh sĩ tốt lành đó bình tĩnh, tươi cười, và hoan hỉ kêu lên:

- Mẹ Maria là Nữ Vương và là nơi an toàn của tôi, đã xin cho tôi được tha thứ và được rỗi. Rồi nhìn cắm vào Mẹ Maria đang gọi ngài theo, ngài thưa lên:

- Vâng con đi đây, Mẹ ơi!

Đang lúc cố gắng ngồi dậy thì ngài tắt thở êm ái. Chắc chắn linh hồn ngài đã được  theo Mẹ  Maria về trời hưởng sự hạnh phúc đời đời vinh hiển

 

129. Giao Kèo Với Quỉ 

Cha Vincent Bôviô trong cuốn Speculum historicum và Cha Cêsarê trong cuốn Dialogus miraculorum đã thuật truyện 1 thanh niên quí phái, sau khi sài phí hết di sản khổng lồ cha chàng để lại, chàng cùng quẫn quá đến nỗi phải đi hành khất để nuôi mình.  Nhưng để bớt xấu hổ, chàng quyết định bỏ quê hương đi sống đời vô danh ở đất lạ quê người. 

     Trên đường tha phương của cậu, một hôm chàng gặp 1 gia nhân của chàng.  Người này thấy chàng buồn  rầu vì nghèo khổ, khuyên chàng can đảm lên.  Hắn hứa sẽ giới thiệu chàng với 1 ông hoàng rất giàu có quảng đại, không những ông sẽ cứu chàng khỏi khổ, mà còn không thiếu thốn gì nữa.  Tên gia nhân cũ đó, thật ra chỉ là 1 tên nham hiểm, mê theo những tà thuật của phù thủy.  Thế là 1 hôm, hắn mời chàng thanh niên quí phái đi theo hắn.  Hắn dẫn chàng qua 1 khu rừng, tới 1 bờ hồ.  Ở đó, tên phù thủy đang thì thầm nói chuyện với 1 người vô hình khác. 

 Chàng thanh niên hỏi hắn nói truyện với ai thì hắn đáp: 

- Với đức linh quỷ. 

Rồi hắn lại rì rầm nói truyện không hề sợ hãi: 

Lạy ngài, thanh niên này đã bị rơi vào 1 cảnh cùng quẫn rất cực, y muốn lại được giàu có như xưa.  Quỉ trả lời: 

 Nếu nó phục tùng ta, ta sẽ cho nó phú quí hơn trước, nhưng trước hết, nó phải chối bỏ Thiên Chúa mới được. 

     Chàng thanh niên bạc phước sợ hãi lục tục lùi lại, nhưng tên phù thủy khốn nạn nài nẵng thiết tha.  Nể lời, chàng ta quyết định chối Chúa.  Quỉ tiếp thêm: 

     Thế cũng chưa đủ, nó còn phải chối bỏ Đức Maria nữa, vì ta biết chính Đức Nữ đó đã làm hại ta hơn hết.  Biết bao linh hồn đã vào tay ta, mà Người còn cứu được đem về cho Chúa, ĐỂ CHÚNG ĐƯỢC RỖI. 

     Chàng thanh niên kêu lên: 

     -Trời phải thế nữa ư?  Không bao giờ tôi chịu bỏ Đức Maria là Mẹ tôi.  Tôi thà ăn mày suốt đời còn hơn, vì Mẹ Maria là tất cả niềm trông cậy của tôi mà.  Nói rồi chàng chạy… 

     Trên đường về, chàng gặp 1 nhà thờ dâng kính Đức Mẹ, chàng vào viếng.  Trong cơn khốn cực quẫn bách đó, chàng quì gối trước ảnh Đức Mẹ, khóc lóc thảm thiết van nài Mẹ xin ơn tha thứ tội lỗi cho mình, Đức Mẹ liền cầu xin Con Người cho anh chàng cực khổ đó.  Trước Chúa Giêsu còn phàn nàn vì chàng đã bội bạc chối bỏ Chúa, nhưng Đức Mẹ 1 lần nữa lại khẩn khoản nài xin.  Thấy thế Chúa nói:   

- Ôi Mẹ yêu dấu, không bao giờ con từ chối Mẹ điều gì.  Con tha thứ cho nó, vì Mẹ đã xin như vậy. 

     Lúc đó, người đã mua lại gia tài của chàng trai phung phá kia cũng đang ở trong nhà thờ và được dự khán quang cảnh lạ đó.  Ông đã chứng kiến tình thương của Đức Mẹ đối với người trai tội lỗi này, ông đã gả ái nữ của ông cho chàng và đặt chàng làm thừa kế.  Thế là nhờ Đức Mẹ, không những chàng lại được ơn nghĩa cùng Chúa, mà còn được cả của cải đời tạm này nữa. 

« »